HÀ NỘI ĐÂU CÒN NỖI ĐOẠN
TRƯỜNG
Vùng
đất biển dâu tựa kịch trường
Hà
Thành nay đã mở màn sương
Bác
Hồ dìu dắt xây đời mới
Tiên
tổ hộ phù tỏa ánh dương
Từng
bước đánh tan, lui Pháp, Mỹ
Nhịp
nhàng hội nhập đẩy công thương
Mùa thu Cách mạng lừng năm cõi
Hà
Nội còn đâu nỗi đoạn trường.
Mùa
thu 2008
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Xin mạn phép họa bài “ Thăng Long hoài cổ ” của Bà Huyện Thanh Quan.
Tạo hóa gây chi cuộc kỳ trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang thương
Ngàn năm sương cũ soi tiên tổ
Kẻ đấy người đây luống đoạn trường.
HỎI BỤT
Nếu để, chỉ là hòn đất
Nhưng cất lên thành ông Bụt rạng ngời
Tượng đất tưởng như vô tri vô giác
Nhưng thiện tâm vẫn tỏa ngát hương đời
Trong
cuộc sống nếu ta “ cử ” những con người
Chỉ
có vẻ bề ngoài mỹ miều hình thức
Còn
bên trong lại kém tài, kém đức
Đâu
còn là “ chọn mặt gửi vàng”
Sẽ
“ gây tai ương cho xã hội nhân quần ”
Bọn
kém đức tài càng leo cao càng đục khoét
Miễn
sao cho Đô – la đầy két
“
Sống chết mặc dân ” họ chỉ biết có tiền.
Bụt ơi sao ông vẫn chỉ rất hiền
Ông chỉ khuyên thế gian làm điều thiện
Còn phật tử ngàn đời hằng cầu nguyện
Mong Bụt sớm hiện xuống trần gian
Để ra tay cứu vớt chúng sinh,
Thoát khỏi cảnh bần hàn bức xúc
Để không còn bọn “ ban ngày ăn cướp ”
Cho muôn dân được hưởng thanh bình
Bụt
rằng: với tấm lòng thành,
Dẹp
tan quỷ dữ dân tình yên vui
Con
thuyền rẽ sóng ra khơi
Vượt
qua bể khổ “ vẫn ngời niềm tin”
Dù loài
tham nhũng cuồng điên,
“ Toàn
dân đoàn kết ” ắt nên cơ đồ.
VỊNH HÒN TRỐNG MÁI
Con tạo vẽ hình mãi đẹp tươi
Đây hòn Trống Mái giáp trùng khơi
Bạn đời sát cánh bao thiên kỷ
Trần thế sao đành tách lứa đôi.
Sầm Sơn hè 2007
MUỐN ĐẸP CHO CHỒNG
Nếu bà “ liêm khiết ” được như ông
Hẳn bọn đàn em cũng hết lòng
Bọn chúng hăng say tìm ngõ tối *
Các “ cô ” thích thú đón hơi đồng **
Trống rong cờ mở trừ tham nhũng
Ý Đảng lòng dân đã thuận đồng
Nhắn gửi phu nhân nơi trướng hậu
Tránh tham là để đẹp cho chồng.
Ghi chú:
* Ngõ tối : hối lộ
** Hơi đồng: Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê ( Truyện Kiều )
CHIẾC PHAO
*
Chiếc
phao là để cứu sinh
Trong
vùng bão lũ mênh mông tràn về
Chiếc
phao có phép diệu kỳ
Cứu
người chới với trong khi hiểm nghèo
Ngày
nay lắm kẻ chuyên nghề
Lược ghi giải đáp các đề vào phao
Học
lười chẳng được là bao
Khi
thi lén lút tìm phao cứu mình
Học
cần đi đôi với hành
Học
mà như “ Rứa ” thì hành làm sao
Nhân
dân ta rất tự hào
Cậy
trông lớp trẻ lược thao gồm tài
Nếu
như cứ học kiểu này
Ra
trường góp sức với đời sao đây
Một
điều nhắc lại đừng quên
“
Dùng phao ” là xấu chẳng cơm cháo gì?
Học
chăm để mỗi kỳ thi
Điểm
dành cao nhất mãi ghi bảng vàng.
Mùa thi 2006-2007
*: Là người làm công tác giảng dạy lâu năm tôi đã mấy lần được nghe nói
về chiếc phao nhưng nay đích thân nhặt một “ Chiếc phao ” ở dưới sân trường tôi
thấy có trách nhiệm làm gì đây tôi viết bài thơ này.
XƯA VÀ NAY
Ông cháu đi học
Thuở nhỏ lội sông tôi đến trường *
Ngày nay nhẹ nhõm vút trên đường
“ Giấc mơ ” con trở cháu đi học **
Hai cảnh bể dâu cũng lẽ thường.
Cầu được ước nên
Mơ ước ngày xưa xe phượng hoàng***
Sau mong xe máy phóng về làng
Giờ đây cầu được ô tô xịn
Bóng nhoáng vi vu vút nhẹ nhàng.
Cơm tám bát sứ
Mua gạo xưa mong đỡ xếp hàng
Về sau lại muốn gạo quê làng
Đến nay thường chọn tám thơm phức
Bát sứ cơm ngon món bổ lành.
Đất nước mãi mến yêu
Cuộc sống ngày nay đã khác nhiều
Ấm lo hạnh phúc với tình yêu
Cháu con nối tiếp gắng gìn giữ
Cho đất nước này mãi mến yêu.
Ghi chú:
*Làng không có trường tôi phải lội qua sông Cửu An sang học ở làng bên
kia sông
**Giấc mơ xe máy Dream
***Xe phượng hoàng: thời bao cấp chỉ muốn được phân phối chiếc xe Trung
Quốc phượng hoàng.
TIẾNG CHIM HÓT TRONG VƯỜN CẢNH
Vẫn còn đôi chim nhỏ
Chiêm chiếp kêu trên cành
Nhưng em đâu còn nữa
Chỉ còn một mình anh
Vườn
nhà xưa xanh tốt
Hoa
đua nở bốn mùa
Giờ
đây còn đâu nữa
Bởi
vắng em sớm trưa
Nhớ ngày tám tháng ba
Anh ra vườn hái hoa
Tặng em ngày quốc tế
Nay em đã đi xa
Chim
ơi chim cứ nhảy
Để
tiễn người đi xa
Chim
ơi cứ nhảy nhót
Để
làm dịu lòng ta.
THANH MIỆN QUÊ TÔI ĐỔI MỚI
Thanh Miện mình ơi quý mến nhiều
Ở xa càng nhớ biết bao nhiêu
Cửu – An uốn khúc dòng xanh biếc
Đường nhựa khắp vùng thật đáng yêu.
Về thăm càng thấy đẹp quê mình
Ba vụ nối nhau tựa bức tranh
Chuyển đổi cây trồng thêm thủy sản*
Giảm ngheo xóa đói ắt càng nhanh.
Dân sinh cải thiện sáng ngời ngời
Văn hóa xây nền giúp mọi người
Lịch sử văn minh vui giao tiếp
Không còn vất vả chạy ngược xuôi.
Cuộc sống giờ đây đã khác xưa
Đâu còn mái rạ để che mưa
Nhà tầng mái ngói chen san sát
Hạnh phúc ấm no thỏa ước mơ.
Con đường đổi mới đã hơn xưa
Có Đảng anh minh dìu dắt ta
Vẫn tự sức mình là chính yếu
Từ đây cuộc sống mãi vươn xa.
Hà Nội mùa Đông 2007
Ghi chú: Địa phương đầu tư mấy tỉ vào khu đồng trũng thuộc thông Tòng
Hóa – xã Đoàn Kết để nuôi Thủy sản – hàng hóa.
NHỚ ĐÔI CÂU ĐỐI QUÊ HƯƠNG
Sĩ phu “ ba tổng” rất cao tay (1)
Ba xã hai dòng ngũ cốc đây (2)
Vế đối đề ra sao hóc búa
Văn chương phú lục thật là hay.
Thi nhân “ Sáu tổng ” cũng không vừa (3)
Kinh sử dùi mài với sớm trưa
Quạ Hiền Hóa Phượng ôi kỳ vỹ (4)
Kẻ sỹ có đâu ngại nắng mưa (5)
Con người Thanh Miện hiền tài
Địa linh nhân kiệt sáng ngời vươn xa
Tự hào truyền thống quê ta
Nhớ quê Thanh Miện dù xa vẫn về.
Ghi chú:
(1) Ba
tổng: là vùng Ba Tổng Nam Thanh Miện tỉnh Hải Dương.
(2) Ba
xã gồm: Phú Mễ, Bằng Bô, Gia Cốc, có hai xã thuộc dòng Ngũ Cố ( Phú Mễ, Gia Cốc)
(3) Sáu
tổng là vùng 6 thuộc Bắc Thanh Miện
(4) Vế đối lại cũng tên 3 xã: Từ Ô, Tòng Hóa, Phượng Hoàng, trong đó có hai xã thuộc
loài chim Từ Ô ( con Quạ Hiền, chim Phượng Hoàng)
Để đối với:
“ Phú Mễ Bằng Gia Cốc
Từ Ô, Hóa Phượng Hoàng”
Từ Ô, Hóa Phượng Hoàng”
TRỞ LẠI CHI LĂNG VỚI ĐẢO CÒ
Hơn nửa thế kỷ trở lại đây
Một vùng căn cứ giặc Tây
Chi Lăng thuở ấy nay đổi mới
Đã thắng giặc rồi tiếp dựng xây.
Có người ướm hỏi: “ Sao ở đây
Dân nghèo, ít súng dám đánh Tây?
Xin thưa: Yêu nước căm thù giặc ”
Địch đến đừng hòng thoát hỏi đây.
Khi xưa bên cạnh vực Triều Dương
Có mảnh đất nghèo An – Phương – Dương
Nay thành đất tốt cho cò đậu
Khiến bao du khách dạ vấn vương
Chi Lăng Nam xưa đất bạc màu
Nay xóa đói nghèo thêm đẹp giàu
Tạo dựng một vùng sinh vật cảnh
Cho ngành du lịch bắc nhịp cầu.
Đất Chi Lăng Nam, đất anh hùng
Cùng Chi Lăng Bắc từng vùng vẫy
Căn cứ lừng danh thời chống Pháp
Nay có Đảo Cò quý hơn vàng.
Ríu rít vạc cò suốt ngày đêm
Vạc về buổi sớm cò thay phiên
Ai muốn tìm về nơi kỳ thú
Mời đến Chi Lăng đất dịu hiền.
Đẹp cảnh đẹp người Chi Lăng Nam
Đón chào bè bạn đến tham quan
Quyết giữ Đảo Cò vùng trăng nước
Quê hương đẹp mãi với thời gian.
Mùa
thu 2003
Bài xướng của lão Thi sĩ Hoài Yên:
Dòng đời thấm thoắt tám mươi xuân
Được - Mất ? Âu trong lẽ chuyển vần!
Ái mộ thơ Đường, tim đỏ chót
Giao du tình bạn, tuyết trong ngần.
Ngu hèn, mau được bù cần mẫn
Nghèo kiết, vui không vướng nợ nần.
Cứ thế ... sống kỳ cho đến chết
Dù bao bận nữa với nàng Xuân!
XUÂN LẠI VỀ
Hôm
nay xuân lại trở về rồi
Rộn
rã mừng xuân rực sáng ngời
Ai
bảo xuân đi không trở lại
Xuân
về cho vạn vật sinh sôi.
Nắng
xuân tắm gội nở ngàn hoa
Rực
rỡ Đào – Mai muôn sắc khoe
Chồi
lộc xanh tươi mưa lất phất
Hoa
xuân tươi thắm đẹp muôn nhà.
Xuân
đi rồi đến biết bao lần
Qua
Hạ, Thu, Đông lại tới Xuân
Nhí
nhảnh nàng Xuân ôi đẹp quá
Ước
mơ cuộc sống mãi là xuân.
Xuân
Ất Mùi,2015
NGẮM LÁ QUỐC KỲ *
Cờ
đỏ sao vàng phấp phới bay
Ngắm
cờ rực rỡ lòng ngất ngây
Nhớ
ngày cách mạng mùa thu ấy
Khởi
nghĩa dưới cờ đuổi Nhật Tây.
Kháng
chiến chín năm vững ngọn cờ
Mỹ
cút, Ngụy nhào tưởng như mơ
Cờ
đỏ sao vàng nâng hồn nước
Bay
khắp mọi miền thỏa ước mơ
Quốc
kì đỏ thắm đượm lòng dân
Bao
nhiêu xương máu chẳng ngại ngần
Bảo
vệ Quốc kỳ gương quyết tử
Đẹp
mãi cờ đào tới vạn xuân.
Đầu
xuân Giáp Ngọ, 2014
Ghi chú
*: Suy ngẫm khi lá Quốc
kì trong những ngày tết, lễ.
VỀ ĐẤT TỔ
Tháng
ba chảy hội đất vua Hùng
Hà
Nội Việt Trì tới Thậm Thình
Nghĩa
lĩnh vút cao lòng náo nức
Hy
cương xừng xững dạ tưng bừng
“
Việt Nam Triệu tổ ” lưu Thanh sử *
“
Nam quốc sơn hà ” tiếp Lạc Hồng **
Trở
lại cội nguồn bao kỷ niệm
Hướng
về Đất Tổ mãi ghi lòng.
Tháng
3 năm 2012
Ghi chú:
*: dòng đại tự trước đều
thượng “ Nam Việt Triệu tổ”
**: Tuyên ngôn độc lập
thời kỳ Đại Việt trích thơ Lý Thường Kiệt “ Nam Quốc sơn hà Nam đế cư ”
GÓP THÊM HƯƠNG SẮC
Tuổi
ngót chín mươi vẫn sống vui
Hồn
thơ ấp ủ mãi không thôi
Xưa
còn chiến đấu lòng hăng hái
Nay
đã điền viên dạ thảnh thơi
Trẻ đã tung hoành đi khắp nẻo
Già
mong du ngoạn tới đôi nơi
Tràn
đầy thi tứ muôn màu sắc
Để
góp thêm hương những mảnh đời.
Tháng
5,2014
Ghi chú:
*: mến tặng các thi hữu
đứng tuổi và các cụ bậc cao niên
UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
Kính tặng các vị thân nhân liệt sĩ và các đồng chí thương binh bệnh binh thôn Tòng hóa và xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương
Quê
tôi có hai người con gái
Cùng
tiễn chồng ra trận diệt thù
Từ
ngày Cách mạng mùa thu
Anh
đi, em những mong thư gửi về
Anh
mang theo lời thề cứu nước
Anh
sẽ về khi giặc đã tan
Ở nhà kính mẹ nuôi con
Đảm
đang em quyết giữ tròn thủy chung
Cuộc
kháng chiến oai hùng thần thánh
Đã
vững vàng thế mạnh toàn dân
Anh
tiền tuyến, em hậu phương
Nuôi
quân, đánh giặc tăng cường chí cao
Điện
Biên Phủ cờ sao phấp phới
Thắng
Pháp rồi, Mỹ tới xâm lăng
Anh
đi xẻ dọc Trường Sơn
Quyết
tâm giải phóng Miền Nam mới về
Tiền
tuyến gọi nhằm thù xốc tới
Giặc
tan anh về với quê hương
Hai
chị chung một tình thương
Thương
chồng giữ trọn nước non lời thề
Tin
đại thắng đưa về vang dội
Mỹ,
Ngụy thua thống nhất giang san
Từ
đây xum họp Bắc Nam
Em
mong tin ở tiền phương gửi về
Dù
xanh cỏ không hề ân hận
Hay
ngực đầy những tấm huân chương
Nỗi
lòng người vợ hậu phương
Đã
từng một nắng hai sương đợi chờ
Rồi
một người tin chồng liệt sĩ
Một nhận về người lính bị thương
Hai
chị một tấm lòng son
Vì
người vì cả nước non huy hoàng
Xin
một phút nghiêng mình tưởng niệm
Trước
hương hồn liệt sỹ thiêng liêng
Anh
sống mãi trong lòng dân
Xứng
danh “ Tổ quốc ghi công đời đời”
Xin
cảm ơn những người chiến sĩ
Mang
trên mình thương tích nặng nề
Đã
từ cõi chết trở về
Xứng
danh Người lính cụ Hồ quang vinh
Được
sống trong hòa bình hạnh phúc
Nhớ
ơn người vì nước quên thân
Trung
với Đảng, hiếu với dân
Các
anh vì nước xả thân kiên cường.
Uống
nước phải nhớ tới nguồn
Được
ăn quả chín nhớ người trồng cây.
Hà Nội ngày 27/7/2007
SAPA TRONG SƯƠNG
Mái
nhà cao nhất của Đông Dương *
Nhìn
xuống SaPa đẹp lạ thường
Rừng
núi ôm mây, mây phủ núi
Sa
pa huyền ảo khuất trong sương
Tôi
tới SaPa một buổi chiều
Thấy
lòng thanh thản biết bao nhiêu
Những
ngôi biệt thự bên lưng núi
Dưới
chợ ngựa thồ đã tới nhiều.
Đến
phố Lào Cai lúc nắng nồng.
Sa
pa buổi tối đắp chăn bông
Ban
ngày ít thấy trời hoe nắng.
Đẹp
lắm Sa pa tình thắm nồng.
Mải
miết đi tìm thác với cầu **
Cầu
Mây thác Bạc vẻ muôn màu.
Sáo
Mông quyến rũ dư âm mãi
Náo
nức chợ Tình để tìm nhau.
Nhà
thờ cổ kính rạng non cao
Vườn
thuốc nhân sâm thêm tự hào
Thược
dược bên đường khoe sắc thắm
Sa
mu trùng điệp đẹp vùng cao. ***
Thăm
vùng danh thắng ngát hương hoa
Cuộc
sống đồng bào lại khác xa
No
ấm ước mơ người thiểu số
Để
niềm suy ngẫm mãi trong ta.
Ghi chú:
*: Đỉnh Phanxipăng
(Hoàng Liên Sơn)
**: Ở SaPa có đôi câu thơ:
SaPa
thác Bạc cầu Mây
Có
Đào Bích Nhị ngất ngây lòng người.
***: Loại gỗ quý này
thành rừng trùng điệp ở SaPa.
NẶNG TÌNH QUÊ HƯƠNG
Quê
tôi xưa có cây gạo trên đê
Có
cây đa cổ thụ đầu làng
Có
giếng nước trong mái đình cổ kính
Có
chùa miếu Nghè, có đường Nghinh Tống *
Ấm
lòng dân khi tắt lửa tối đèn
Thương
yêu nhau khi gửi gắm tấm lòng
Đùm
bọc nhau trong những năm đói kém **
Ôi
đẹp biết bao tình làng nghĩa xóm
Thắm
thiết bên nhau tình cỏ nội hương đồng
Quê
hương tôi có bến nước dòng sông ***
Thuở
thiếu niên tôi thường ra tắm mát
Quê
hương tôi có đồng xanh bát ngát
Phấp
phới cánh cò bay lả bay la.
Kể
từ ngày cách mạng mùa thu
Trong
chống Pháp và những năm chống Mỹ
Lớp
thanh niên tình nguyện làm chiến sỹ
Đã
bao người thành liệt sĩ thương binh
Cả
làng tôi đều quyết chí lập công
Cùng
toàn quốc làm nên ngày đại thắng
Quê
hương tôi đang trên đà khởi sắc
Đang
vươn lên đổi mới từng ngày.
Đã
bao năm xa lũy tre làng
Nay
trở về trong lòng thêm phấn khởi
Gần
sáu mươi năm theo đường Bác – Đảng
Vết
chân đã qua Đông –Bắc – Đoài – Nam
Nhớ
về làng càng trìu mến quê hương.
Bao
năm trên bước đường xa
Vẫn
luôn canh cánh thiết tha quê mình
Xa
quê lòng vẫn đinh ninh
Xa
quê ai chẳng nặng tình quê hương.
Mùa
thu 2003
Ghi chú:
*: Đường Nghinh Tống để
rước quan nghè về đình làng tế trong dịp đình đám.
**: Trong nạn đói năm Ất
Dậu – 1945 nhờ sự hảo tâm của những người có dư
thóc gạo, tổ chức cứu tế ở làng do Việt Minh chỉ đạo, đã nấu cháo và
phát cho dân đói suốt vụ giáp hạt nên không có người chết đói.
***: Có dòng sông Cửu
An chạy từ Kẻ Sặt về dọc làng và qua cánh đồng, có bãi cát trắng tắm mát.
HẬN LỆ CHI VIÊN
Đường
trường theo gót tới Nam Quan (1)
Lời
dặn của cha “ chớ khóc than
Nợ
nước thù nhà con phải trả
Tìm
người Minh chủ đất Lam Sơn”
Những
năm ẩn dật ở Đông quan
Bạn
đời gặp gỡ “ Cô chiếu gon” (2)
Náu
mình hoạch định “ Bình Ngô Sách”
Vượt
núi băng rừng tới Lam Sơn
Lê
Lợi vi quân “ Nguyễn Trãi thần ” (3)
Mười
năm chiến đấu gốc là dân
Muôn
trùng gian khổ không sờn chí
“
Đại cáo bình Ngô ” báo chiến công (4)
Bởi
chốn quan trường lắm đảo điên
Âm
mưu hiểm độc Lệ Chi Viên
“
Công thần ” ngược lại thành “ tử tội”
Tang
tóc đau thương khắp sĩ – dân (5)
Tuy
đời đã giải nỗi oan khiên
Nay
lập đền thờ tại Côn Sơn
Văn
hóa danh nhân hàng thế giới
Muôn
đời vẫn hận Lệ Chi Viên.
Mùa
thu 2008
Ghi chú:
(1) Theo Đại Việt Sử Ký . Khi ông Nguyễn
Phi Khánh bị giặc bắt đưa về nước Tần, Nguyễn Trãi đã tiễn cha tới Mục Nam quản.
(2) ở Đông Quan Nguyễn Trãi đã gặp một
ô gái tài sắc song toàn đó là Thị Lộ - Cô gái bán chiếu gon giờ đây ta vẫn còn
nhớ bài thơ xướng họa tuyệt tác của Nguyễn Trãi và Thị Lộ.
Xướng:
Cô
ở đâu ta bán chiếu gon
Chiếu
cô đã bán hết hay còn
Xuân
thu chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã
có chồng chưa được mấy con
Họa:
Tôi
ở tây Hồ bán chiếu gon
Cớ
chi ông hỏi hết hay còn
Tuổi
chừng mười tám đôi mươi đó
Chồng
còn chưa có nói chi con.
(3) Đánh vào tâm lý tin vào thần thánh
Nguyễn Trãi đã cho viết chữ “ Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thân ” bôi mật mỡ
vào khi kiến đục hết mật mỡ còn trơ lại dòng chữ như một câu thơ thần cho mọi
người tin và hướng về Lam Sơn theo Lê Lợi.
(4) Bài Bình Ngô Đại Cáo như một bản vạn cổ hùng văn và cũng là cơ sở
để thế giới công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
(5) Vụ Lệ Chi Viên cũng là cái tang
chung của toàn dân và chiến sĩ đã từng cùng Lê Lợi, Nguyễn Trãi 10 năm kháng
chiến gian khổ và thắng lợi.
MỘT THOÁNG QUA TRƯỜNG
Qua
rẫy bằng lăng đến ngọc lan
Hương
thơm tỏa ngát dạ hân hoan
Khu
trường đại học nhiều cây quý
Kiến
tạo cảnh quan đẹp huy hoàng
Xưa
khu tập thể ở ven đồi*
Vách
đất nhà tranh vẫn tiếng cười
Nay
ở cạnh trường cao chót vót
Mời
anh quá bộ tới khu tôi.
Xưa
kia sơ tán ở nhà dân
Sau
tự dựng xây những mái tranh
Nay
tới đất lành nhà lộng gió
9
tầng ký túc của sinh viên
Trước
đây là ruộng của Minh Khai**
Tọa
lạc một bên lộ Ba Hai (32)
Nay
dựng mái trường cao hiện đại
Mười
bẩy tầng lầu chẳng kém ai.
Dưới tán cây đa có miếu Trò
Dưới tán cây đa có miếu Trò
Còn
in sự tích mấy ai ngờ
Nơi
này dấu ấn người hàn sĩ
Vì
đói nằm đây mãi chẳng về
Sức
bật của trường thật diệu kỳ
Chặng
đường vượt khó đẹp mê ly
Thầy
trò cùng những người phục vụ
Có
Đảng dẫn đường vững bước đi.
*Ở khu sơ tán thời chống
mỹ thuộc tỉnh Hà Bắc
**Xã Minh Khai, thuộc
Huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội
***Theo lời kể của bà
con địa phương: nơi đây ngày xưa gọi là Cầu Chờ. Từ khi có một anh học trò
nghèo thường qua đây vào kinh thành để tầm sư học đạo, nhưng anh đã bị chết
đói ở đây nên có tên là Cầu Trò.
TÂM SỰ NHÀ GIÁO
Tôi
vẫn nhớ về một mái trường
Bao
ngày lên bục giảng thân thương
Các
em đâu phải còn thơ ấu
Chớm
tuổi thanh xuân tới học đường.
Càng
yêu càng gắng việc trồng người
Tuy
đã biết rằng khó mấy mươi
Lớp
trẻ bốn phương từ trăm họ
Hồng
chuyên rèn luyện để vào đời
Thắm
thiết niềm vui nghiệp lái đò
Vì
dân vì nước vẫn toan lo
Bảng
đen, dạ sắt luôn thanh bạch
Phắn
trắng, lòng son chẳng bụi mờ.
Tỗi
vẫn dõi theo bước học trò
Ra
trường hăng hái dựng cơ đồ
Đắp
xây, bảo vệ non sông Việt
Lớp
lớp “ thành danh” đâu bất ngờ
Về
hưu càng nhớ biết bao lần
“
Nhà giáo ngày vui ” đang đến gần
Nhớ
bạn, nhớ trò đi khắp nẻo
Góp
xây đất nước đẹp muôn phần.
Hà
Nội, 18/11/2005
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN
QUỐC TUẤN
Sinh
thành danh tướng tử thành thần
Thái
úy Trần triều đấng đại nhân
Tướng
sĩ hịch truyền mưu kháng địch
Hận
nhà hóa giải trí tôn quân
Ba
lần thắng giặc lưu muôn thủa
Bốn
cõi an dân để mãi xuân
Chiến
tích còn ghi nơi Kiếp Bạc
Sinh
thành danh tướng tử thành thần.
NGẮM NHÀNH HOA PHONG
LAN
Một
lẵng phong lan khéo bón trồng
Thân
tròn rễ trắng tỏa ngang hông
Cả
năm nước đẫm càng xanh lá
Một
sớm sương mờ đã biếc bông
Xưa
đến sống nhờ cây hốc đá
Nay
về độc lập gác ven sông
Nhờ
người chăm tưới lan tươi tốt
Vui
ngắm nhành hoa đẹp tấm lòng.
Mùa
thu 2008.
BA MƯƠI NHĂM NĂM MỘT
MÁI TRƯỜNG
Tôi
lại trở về với mái trường
Việt
Hưng Hữu Nghị mới tinh sương
Đến
nay trường đã ba nhăm tuổi
Lại
sớm bước lên Đại học đường.
Ôn lại mái trường lúc sơ khai
Giữa nơi heo hút của xứ Đoài
Đồi gò leo lách vùng sơn cước
Có sức thanh niên góp trí tài.
Sức
mạnh Việt Hưng thật phi thường
San
đồi bạt núi dựng nên trường
Kết
đoàn chung sức cùng vun đắp
Để
có hôm nay Đại học đường.
Ba nhăm năm ấy rất can trường
Lãnh đạo chung tay rất vững vàng
Nhà giáo tận tâm truyền kiến thức
Sinh viên rèn luyện rất ngoan cường.
Ấp
ủ niềm vui nghiệp lái đò
Bạn
cùng sông nước với đôi bờ
Bảng
đen dạ sắt luôn thanh bạch
Phấn
trắng lòng son chẳng bụi mờ.
Bồi dưỡng nhân tài hiến cho đời
Bởi bao công sức góp trồng người
Việt Hưng tô thắm Hà Thành mới
Núi Tản sông Đà tỏa sáng ngời
Mối
tình Hữu Nghị vẫn như xưa
Dù
trải thăng trầm mấy nắng mưa
Với
chí “ dời non và lấp biển ”
Việt
Hưng lấp lánh đẹp như mơ.
Muôn lời kính tặng chúc nhà trường
Tạo lớp kế thừa chuyên – thắm hồng
Đại học Việt Hưng luôn mạnh bước
Góp xây đất nước mãi hùng cường.
Hà
Nội, ngày 20/11/2012
THĂM ĐẤT HAI VUA
Mới
đến Sơn Tây * nắng lại mưa
Thăm
Vùng làng cổ đất Hai Vua**
Lừng
danh Bố Cái dân mong đợi
Hiển
hách Ngô Vương giặc phải thua
Sự
tích Sứ Đoài vang bốn cõi
Bài
ca Cửa Triệu vọng ngàn xưa
Võ công chói lọi lưu truyền thống
Hậu
thế noi gương mãi kế thừa.
Hà
Nội, 11/2009
*Đậy là vùng bán sơn địa
dễ nắng dễ mưa
** Hai Vua là làng cổ
Đường Lâm nơi sinh Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và Ngô Quyền.
VAI
TRÒ XUNG KÍCH
Hôm nay trở lại Xứ đông
Lòng vui nao nức mênh mông tràn trề
Địa linh nhân kiệt truyền kỳ
Bao năm chiến đấu
chẳng hề nghỉ ngơi
Lục đầu giang
mãi tuyệt vời
Đường 5 quật
khởi sáng ngời chiến công
Thanh niên cứu
quốc khai thông
Thanh niên cộng
sản góp công trí tài
Kế thừa truyền
thống muôn đời
Côn Sơn Kiếp Bạc
ngời ngời sử xanh
Đồng xanh nhà
máy cũng xanh
Thời kỳ đổi mới
có anh có nàng
Góp xây cuộc sống
đàng hoàng
Công nông trí thức
rộn ràng tiến mau
Thanh niên vị
trí hàng đầu
Vượt qua gian
khó mặc dầu nắng mưa
Vui trong lập nghiệp sớm trưa
Bảo vệ Tổ quốc mới
vừa lòng nhau
Ơn Đảng nghĩa nặng
tình sâu
Nhớ lời Bác dạy
trước sau một lòng
Thanh niên
giương ngọn cờ hồng
Vai trò xung
kích mãi trong tim này.
Hà
Nội, 11/2009
THĂM
QUỐC TỬ GIÁM
Rực rỡ Thăng Long cuốn sử vàng
Còn đây
Văn Miếu đẹp huy hoàng
Hàng bia Tiến sĩ niềm kiêu hãnh
Dấu
ấn hiền tài nức tiếng vang
Quá
khứ tiền nhân đà rộng mở
Tương
lai hậu duệ sẽ thênh thang
Phát
huy truyền thống ngời văn hiến
Rực
rỡ Thăng Long cuốn sử vàng.
HÀO KHÍ NGÀN NĂM ĐẤT TRỐNG
ĐỒNG
Một
vùng cổ kính trước công nguyên*
Thành
nội ngoại ô rất hợp duyên
Đồng
cổ Từ Liêm văn hiến địa
Thăng
Long Hà Nội thái bình thiên **
Đương
thời vất vả tâm càng vững
Quá
khứ gian truân chí vẫn bền
Nguyên
Xá – Minh Khai vui phấn đấu***
Xứng
danh hào khí đất Rồng – Tiên.
14h25’
ngày 3/4/2015
Ghi
chú:
*Theo thần phả của miếu
Đồng cổ cư dân Nguyên Xá đã đến đất này từ trước công nguyên
** “Đồng cổ Từ Liêm văn
hiến địa
Thăng Long Hà Nội thái
bình dân”
Dịch nghĩa:
Trời Đồng cổ Từ Liêm một
vùng văn hiến
Đất Thăng Long Hà Nội
muôn thuở thái bình.
***Nguyên xá có miếu thờ
Thần Đồng cổ nay thuộc phường Minh Khai quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
NGẪU HỨNG TUỔI 90
Xuân
này tuổi hạc 90 tròn*
Trải
mấy bể dâu dạ sắt son
Tuyến
lửa sẵn sàng yên tổ quốc
Giảng
đường tận tụy vững giang sơn
Khi
vui du ngoạn ca danh thắng
Lúc
rảnh đề thơ vịnh nước non
Mải
miết thi đàn cùng sướng họa
Hương
thơm tỏa ngát để đàn con **
Đầu xuân Ất Mùi 2015
*Tính
theo tuổi mụ
**
Từ câu ngạn ngữ cổ “ Di hương bất di sú ” dịch nghĩa là để lại tiếng thơm không
đểlại tiếng xấu.
ĐẾN HỒ GƯƠM
Tháp
rùa rực sáng giữa Thành Đô
Nhành
liễu thướt tha rủ mặt hồ
Tháp
Bút Đài Nghiên đang đứng đợi
Ngọc
Sơn Thê Húc vẫn trông chờ
Tao
nhân vãng cảnh lòng lưu luyến
Mặc
khách tham quan dạ ngẩn ngơ
Ai
đã qua đây không cảm hứng
Ngắm
vùng thắng cảnh muốn đề thơ.
Mùa
xuân Ất Mùi 2015.
TUỔI CAO VẪN THẮP SÁNG
ĐƯỜNG THI
Dòng đời thấm thoắt tám mươi xuân
Được - Mất ? Âu trong lẽ chuyển vần!
Ái mộ thơ Đường, tim đỏ chót
Giao du tình bạn, tuyết trong ngần.
Ngu hèn, mau được bù cần mẫn
Nghèo kiết, vui không vướng nợ nần.
Cứ thế ... sống kỳ cho đến chết
Dù bao bận nữa với nàng Xuân!
Hoài Yên
Bài họa của Nhà thơ Thanh Tòng
Chốc
đã tới rồi bát thập xuân
Bách
niên tuần tự sẽ xoay vần
Giao
lưu phú lục thêm xanh thẳm
Thắp
sáng đường thi mãi trắng ngần
Cần
mẫn không thua tri với thức
Cơ
hàn chẳng vướng nợ cùng nần
Bao
giờ Bắc Đẩu, Nam Tào gọi
Thời
điểm “ bất kì ” hết nợ xuân.
Ngày
10/4/2014
Ghi chú: Họa bài thơ Tự
họa 80 của lão thi sỹ Hoài Yên người có công lớn trong phong trào thắp sáng Đường
thi thời kỳ cuối thế kỷ 20 và đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ 21.
ĐẤT NƯỚC CỦA THI CA
Đất
nước này đã bao đời dầu dãi
Dù
nắng lửa mưa trơn vẫn kiên cường bươn trải
Vẫn
yêu đời bằng tục ngữ ca dao
Đất
nước này ai cũng biết vì sao
Ngày
lại ngày vẫn đắp vun nền văn hiến
Cả
những khi gặp cơn nguy biến
Vẫn
oai hùng với bài “ Nam quốc sơn hà ”(1)
Đất
nước đã qua bao cảnh bi hùng
“
Nhưng sĩ kiệt đời nào cũng có ”
Dù
gặp bao phũ phàng dông tố
Vẫn
vang lên “ Đại cáo Bình Ngô ”(2)
Đất
nước có cả kho truyện bằng thơ
Văn
chương bình dân và bao vần thơ uyên bác
Người
được thế giới xếp hàng danh nhân kiệt tác
Đọc
truyện Kiều ai chẳng khóc Tiên điền (3)
Từ
người tuổi cao đến lớp thiếu niên
Ai
cũng thuộc lòng “ Trăm năm trong cõi …”
Từ
thuở Bác Hồ đi tìm đường mở lối
Thi
sĩ đâu còn “ để tâm hồn treo ngược cành cây ”(4)
Thơ
giải phóng, thơ kháng chiến càng say
Say
chiến thắng nghĩa nhân trong thi tứ
Nguồn
thi ca hào hùng trong quá khứ
Sẽ
lưu truyền mãi đến muôn đời
Trong
đổi mới xây dựng cuộc sống sáng ngời
Ta
lại thấy nguồn thơ ca bất tận
Từ
thành thị nông thôn tới vùng phụ cận
Ở
đâu cũng “ ra ngõ gặp thi nhân” (5)
Đời
sống văn minh đâu chỉ có mặc với ăn
Còn
cần những vần thơ mượt mà thôi thúc
Các
tầng lớp công nông và trí thức
Sáng
tác thi ca để phục vụ con người
Lớp
cao niên đã gần sống hết cuộc đời
Vẫn
muốn thảnh thơi bằng vần thơ khúc nhạc
Cho
đất nước này mãi của thi ca
Càng
yêu Tổ quốc gấm hoa
Càng
vui viết tiếp vần thơ yêu đời.
Tết
Nguyên Tiêu xuân Bính Tuất.
Ghi chú:
(1 ) Thơ của Thái úy Lý
Thường Kiệt khi phá quân Tống trên sông Như Nguyệt ( Sông Cầu)
(2) Bình Ngô Đại Cáo của
Nguyễn Trãi sau khi chiến thắng giặc Minh
(3) Tố Như, Tiên Điền
tiên sinh ( Nguyễn Du) đã có di chúc:
Bất tri tam bách dư
niên hậu
Thiên hạ hà nhân khóc Tố
Như.
(4) Thơ của Sóng Hồng ( Trường Trinh – Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt
Nam ) khuyên các nhà thơ với bài “ Là thi sĩ”
(5) Phong trào thơ ca
hiện nay phát triển mạnh chẳng khác gì thời kỳ chống Mỹ “ Ra ngõ gặp anh hùng”.
ANH LÍNH BIÊN PHÒNG*
Đất
nước trải dài mãi vẹn nguyên
Quân
dân bảo vệ khắp ba miền
Không
trung, mặt biển phòng xâm lấn
Hải
đảo đất liền chống đảo điên**
Tổ
quốc trường tồn càng vững bước
Tinh
hoa phát xuất mãi vươn lên
Nhân
dân được sống an khang thịnh
Nhờ
có các anh người lính biên.
*Kính tặng các chiến sĩ
Biên Phòng Việt Nam
** Những hành động thay
đổi di chuyển mốc biên trên đất liền của họ trước đây và ngày nay họ lại đang
gây lộn xộn ở Biển Đông.
ĐIỆN BIÊN NỐI TIẾP NHỮNG
CHIẾN CÔNG
Chiến
thắng Bạch Đằng thế kỷ 10 (938)
Đánh
cho giặc Bắc chạy tơi bời
Sau
5 thế kỷ Chi Lăng tiếp (1420)
Giặc
Minh đại bại rút quân hồi
Thắng
trận Đống Đa diệt Mãn Thanh
Buộc
Tôn sỹ Nghị hết tung hoành
Ngót
ba mươi vạn quân tan tác
Hoàng
Đế Quang Trung rạng sử xanh
Năm
sáu (56) ngày đêm hạ quyết tâm
Đập
tan cứ điểm lũ tây điên
Pháp
đành chịu nhục vì thua trận
Dấu
ấn muôn đời trận Điện Biên
Điện
Biên chấn động cả địa cầu
Lẫy
lừng vang dội khắp năm châu
Cáo
chung chế độ thực dân cũ
Thế
giới cần lao bớt khổ đau
Việt
Nam đã thắng chú voi già**
Nguyện
vọng hòa bình niềm thiết tha
Thế
trận toàn dân nhất định thắng
Sáu
mươi năm ấy mãi vang xa
Mở
trang lịch sử cả nghìn năm
Thắng
trận Điện Biên đuổi ngoại xâm
Thế
giới ngợi ca gương cảm tử
Điện
Biên chiến thắng mãi lừng danh.
Hà
Nội, 5/2014
*Nhân kỷ niệm 60 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954- 7/5/2014)
* Biện Biên nối tiếp những
chiến công, Bạch Đằng Chi Lăng, Đống Đa
** Lúc đầu kháng chiến
chống pháp có người hỏi ta như châu chấu đá voi
**Bác Hồ trả lời: Nay
tuy châu chấu đá voi, nhưng mai voi sẽ phải lòi ruột ra.
NGHĨA ĐẢNG TÌNH DÂN
Thọ
ngoài tám chục chí chưa già
Tuổi
Đảng 60 mươi vẫn thiết tha*
Mặt
trận Việt Minh cùng hoạt động
Thanh
niên cứu quốc đã tham gia
Hiểm
nguy chiến đấu không lùi bước
Gian
khổ trường chinh vẫn tiến xa
Liêm
chính kiệm cần nguyền giữ trọn
Tình
dân nghĩa Đảng sáng lòng ta.
Mùa
thu 2008
Ghi chú:
*Đảng viên 60 năm tuổi
Đảng, thuộc chi bộ cơ khí 3A, Đảng bộ phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
THĂM HUẾ NHỮNG NGÀY MƯA
Nhớ
hoài thăm Huế những ngày mưa
Thắng
tích kỳ quan in dấu xưa
Lao
động khổ sai xây miếu vũ
Sức
người sáng tạo dựng Thành Đô
Sông
Hương nước xiết hồn ngây ngất
Núi
Ngự mưa tuôn dạ ngẩn ngơ
Huế
mãi nên thơ màu tím đậm
Nhớ
hoài thăm Huế những ngày mưa.
Cố
đô Huế 2000
*Kỷ niệm tham quan Cố
đô Huế với đoàn do Ban giáo dục Hà Nội tổ chức.
CHIỀU THU QUA ĐÈO NGANG
Chiều
thu nhớ mãi qua Đèo Ngang
Bà
Huyện đến đây niềm chứa chan
Xưa
phải đau lòng nơi đất Bắc
Nay
đà đẹp dạ chốn trời Nam
Xưa
trời non nước buồn ngao ngán
Nay
Bắc – Trung – Nam vui ngập tràn
Mảnh
đất đất hồn thơ bao kỷ niệm
Chiều
thu nhớ mãi qua Đeo Ngang.
Mùa
thu 2007
*Kính
cẩn tặng nhà thơ Đường luật nổi tiếng Bà Huyện Thanh Quan được đời sau mến mộ
nhân chuyến thăm Cố đô Huế và dừng chân tại Đèo Ngang.
NÚI RỪNG TAM ĐẢO
Đến
những vùng cao tựa gấm hoa
Phía
Nam Đà Lạt, Bắc SaPa
Tìm
về nghỉ mát vùng Tam Đảo
Đất
nước tình yêu càng thiết tha.
Mùa
hè tới Vĩnh Yên
Hòa
quyện với thiên nhiên
Hãy
gắng lên Tam Đảo
Cõi
Trần tưởng là Tiên.
Trên
núi rừng Tam Đảo
Tiếng
thác đổ ào ào
Nghe
con tim rạo rực
Bên
lưng đồi thông reo.
Những
ngôi nhà nghỉ mát
Thoai
thoải bên sườn non
Êm
đềm nghe suối hát
Ngắm
hoa trắng tinh khôi.
Leo
tới đỉnh cao chỉ một đường
Thăm
vùng thắng cảnh ngát hoa hương
Biết
bao kỳ thú trên Tam Đảo
Nghỉ
mát ra về mãi vấn vương.
KỂ CHUYỆN DANH NHÂN
Bảng Nhỡn Nguyễn Nghi (1)
*Hai dòng sông
Tông
Hóa bên dòng sông Cửu An
Nghi
Hà gắn kết vùng Sơn Giang(2)
Trung Hoa thuở ấy xa xôi lắm
Sao
đã có người đặt tên con.(3)
*Hai quê hương
Bảng
nhỡn lừng danh cụ Nguyễn Nghi
Hải
Đông – Tỉnh Thái ở hai quê
Nơi
sinh Tòng Hóa vùng Thanh Miện(4)
Tìm
đến Vũ Tiên đất nguyện thề.(5)
*Lận đận con đường khoa
bảng
Họ
Nguyễn làng tôi có cụ Nghi
Bao
phen lều trõng dự khoa thi
Tuổi
gần sáu chục vẫn chưa đỗ
Sáu
mốt xuân xanh trúng hội kỳ.(6)
Ngày
xưa sau tuyển văn bài
Đến
phần vấn đáp thể tài phú thơ
Đầu
đề nêu “ Lão ngưu thi”(7)
Cụ
Nghi ứng khẩu ai ngờ đạt cao
Vui
mừng khôn xiết tự hào
Nhị
danh Bảng Nhỡn ngôi sao sáng ngời
Sân
rồng nổi trống vang trời
Vinh
quy bái tổ cho đời biết danh.
*Quan trường và dân thường
Tấn
phong chức Tả Nhị Lang
Khâm
thừa chánh sứ lân bang giao hòa(8)
Quan
cao nhưng chẳng xa hoa
Vẫn
xin trí sĩ về nhà làm dân
Quy
tiên 88 tuổi xuân
Thượng Thư truy tặng Vua ban sắc hồng.
*Họ Nguyễn hai quê noi
gương quan bảng
Suốt
đời kiệm học cần công
Quan
thanh liêm nức tỉnh Đông – Thái Bình
Gần
90 tuổi se mình
Đi
xa để lại nghĩa tình hai quê
Cháu
con họ Nguyễn đề huề
Một
nhà đùm bọc tìm về có nhau(9)
Người đi trước, rước người sau
Người đi trước, rước người sau
Tiền
Phong, Đoàn Kết tiến mau kịp người
Hải
Dương – Tỉnh Thái sáng ngời
Có dòng họ Nguyễn đời đời góp công.(10)
*Nghi Hà: con sông nối
liền hai tỉnh Sơn Đông và Giang Tô.
** Năm 61 tuổi cụ Nguyễn
Nghi mới đậu tiến sĩ vào thi đình đậu bảng Nhỡn.
*** Sau khi quan Nghè
Nguyễn Nghi tạ thế ở Tòng Hóa xây ngôi Nghè ở cánh đồng xa đắp con đường gọi là
đường Nghinh Tống để hàng năm rước bài vị về đình làng để thờ( Vì đình làng trước
đời cụ Nghi đã thờ vị thành hoàng)
Ghi
chú cụ thể
(1) Theo
lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Đoàn Kết xuất bản Dòng 2 – Trang 14 ghi rõ: Là
vùng quê nghèo nhưng con người Đoàn Kết lại rất hiếu học. Tiêu biểu là Nguyễn
Nghi (1577-1657) người làng Tùng Hóa ( nay là thôn Tòng Hóa) nổi tiếng ham học
và học giỏi nhất vùng. Năm 61 tuổi ông thi đỗ Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, Cập Đệ Nhị
Danh ( Bảng nhãn) khoa Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hòa thứ 3 (1637) làm quan tới
chức Thừa chánh sứ, Thăng Tả Thị Lang. Khi mất được tặng chức Thượng Thư ( Văn
bia tại Văn Miếu – Hà Nội và danh sách tại Văn Miếu Hải Dương vẫn còn)
(2) Nghi
Hà là con sông bắt nguồn từ tỉnh Sơn Đông chảy vào tỉnh Giang Tô ( Trung Quốc)
(3) Thân
phụ của ông Nguyễn Nghi là người làng Tòng Hóa bên dòng sông Cửu An mà sao cụ lại
biết tên một con sông ở tận nước Trung Hoa để đặt tên cho con mình đó là dòng
sông Nghi. Như vậy thân phụ của ông Nguyễn Nghi phải là Thượng thông thiên
văn hạ đạt địa lý chứ không phải là người bình thường.
(4) Khi
mới thành lập có tên là Tùng Hóa. Trang sau này gọi là Tòng Hóa thuộc Tổng Phí
Xá ( Tổng Phí Xá có 10 xã: Phí Xá, Thanh Xá, Phương Quan, Lâm Cầu, Hoành Bồ,
Vĩnh Mộ, Tòng Hóa, Bằng Bộ, Văn Khê, Phạm Khê) Thuộc huyện Thanh Miện – Hải
Dương. Sau cách mạng tháng 8/1945 xã Tòng Hóa được Liên với các xã Vĩnh Mộ,
Hoàng Bồ, Lâm Cầu thành liên xã Lê Lợi ( thường gọi là xã Lê Lợi)
Từ ngày 2/1946 đến tháng 1/1948 Tòng Hóa lại thuộc
xã Lê Hồng bởi vì
từ
đó 2 xã Lê Lợi và Hồng Thái ( xã Hồng Thái gồm các xã: Chỉ Trung, Phí Xá, Thanh
Xá, Phương Quan) hợp nhất thành Lê Hồng. Sau cải cách ruộng đất (1955-1956) tháng7/1956 thôn Tòng Hóa lại
được nhập vào xã Đoàn Kết như ngày nay.
(5) Vì
hoàn cảnh của một nho sinh nghèo lại gặp phải nhiều khó khăn trong gia đình tới
mức không thể chịu đựng được ông Nguyễn Nghi đã phải từ dã quê hương tìm đến đất
Vũ Tiên – Thái Bình nay là phường Tiền Phong – Thành phố Thái Bình- tỉnh Thái
Bình kiếm sống và tiếp tục học tập để đi thi mong có ngày đỗ đạt làm rạng rỡ tổ
tông và quê hương.
(6) Thế
là người học trò nghèo Nguyễn Nghi bao năm lều chõng nhưng cũng mãi đến năm
Đinh Sửu- đúng 61 tuổi ông đã được toại nguyện xếp hàng tiến sĩ đệ nhất giáp.
(7) Vì
triều đình thấy một tiến sĩ già bước vào thi đình nên Nhà Vua đã ra đề : “ Lão
Ngưu thi” nghĩa là thơ về con trâu già. Cụ Nguyễn Nghi đã trả lời bằng một bài
thơ Đường luật rất hay nên đã đậu Đệ Nhị Danh Bảng Nhỡn với thể thơ Đường luật
nhất ngôn bát cú. Nội dung bài thơ như sau:
TRÂU
GIÀ THƠ
Một nắm xương
khô bọc với da
Bao nhiêu cái
ách đã từng qua
Đuôi kia biếng gẩy
Điền Đan hỏa
Tai nọ buồn nghe
Nịnh tử ca
Sớm tới vườn Đào
nhai bỏm bẻm
Tối về ngõ Hạnh
thở phê pha
Có khi hộc tốc
qua vườn Hạ
Ơn đức Tề Tuyên
lại được tha.
*Bài thơ này được thân phụ Nguyễn Vượng (1899-1992) đọc
cho Nguyễn Thanh Tòng ghi tháng 8/1986.
(8) Phần này chỉ là lược
ghi bằng thơ nên chưa hệ thống được đầy đủ. Ví dụ: Có thời kỳ cụ Nguyễn Nghi đã
từng làm quan phụ mẫu tại Nghệ An, ở Kinh Đô,…
(9) Mãi tận cuối thế kỷ
20 dòng họ Nguyễn chi Tòng Hóa mới tìm gặp được dòng họ Nguyễn chi Tiền Phong ở
Thái Bình.
(10) : Hai chị họ Nguyễn
ở hai quê khác nhau: Tòng Hóa – Đoàn Kết- Thanh Miện- Hải Dương và Tiền Phong –
TP. Thái Bình- tỉnh Thái Bình đều đã và đang có sự đóng góp trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… cho cả hai quê Hải Dươg, Thái
Bình và đất nước để xứng đáng với công lao, ân đức mà cụ Nguyễn Nghi đã đóng
góp cho Tổ quốc.
Phụ ghi:
Nội
dung của bài thơ và những ghi chú trên đều do thân phụ tôi là cụ Nguyễn Vượng kể
lại: Tôi đã sưu tầm thêm và cùng cụ Nguyễn Văn Mốt, anh Nguyễn Lưu ( người Tòng
Hóa) và anh Nguyễn Văn Khỏe là cháu ngoại của họ Nguyễn ( ở Cổ Bì, Bình Giang)
đến tại Văn Miếu Quốc Tử Giám – Hà Nội và tôi đến Văn Miếu Mao Điền – Hải Dương
thuộc xã Cẩm Điền – Cẩm Giàng – Hải Dương và một phần trong cuốn lịch sử Đảng bộ
xã Đoàn Kết – Thanh Miện- Hải Dương. Đồng thời tôi đã đến tham quan nhà tưởng
niệm cụ Nguyễn Lương Bằng – Cố phó chủ tịch nước ở xã Thanh Tùng- Thanh Miện- Hải
Dương có ghi các vị khoa bảng. Trong đó có ghi rõ cụ Nguyễn Nghi người làng
Tòng Hóa- xã Đoàn Kết- Thanh Miện – Hải Dương.
Tác
giả:
Nguyễn
Văn Hách
(
Tức Nguyễn Năng Cường
Bút
danh Thanh Tòng)
THẢNH THƠI THI HỌA CẦM
KỲ*
Trải
hơn tám chục tiết trời đông
Chí
vẫn vững vàng mắt sáng trong
Bát
cú ngâm nga vui mỹ tục
Ngũ
ngôn sáng tác đẹp thuần phong
Khi
nhàn thi họa thêm thanh thản
Lúc
rảnh cầm kỳ vẫn ước mong
Tình
khúc giao lưu cùng bạn hữu
Chị
Hằng duyên dáng đợi ngoài song.
*Tâm đắc 2 câu thơ của
Bác Hồ nói với Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa II, Bác nói thường
là người già phải được:
“
Thảnh thơi vui thú thanh nhàn
Sớm
khuya tiếng nhạc tiếng đàn tiêu dao”
TRÁI BOM LẦN ĐẦU CŨNG
LÀ LẦN CUỐI
Phát Xít gây ra cuộc chiến chinh(1)
Dân
lành cực khổ bởi đao binh
Trung
Xô chịu đựng gian nan nhất(2)
Mặt
trận Đồng minh đã định hình(3)
Tiếng
súng vang rền ở khắp nơi
Thắng
thua thế trận đã an bài(4)
Phía
tây chàng Hít đánh thua trận
Nhật
Bản Quan Đông cũng bại rồi
Loài
người muốn giữ đẹp màu xanh
Vì
khổ muôn trùng bởi chiến tranh
Sao
bọn chuyên nghề buôn vũ khí?
Đem
bom nguyên tử diệt dân lành
Năm
nay kỷ niệm ngày đau thương
Người
Nhật nguyện cầu hết chiến trường
Bom
H lần đầu là lần cuối (5)
Chỉ
còn hữu nghị với thương trường.
Hà
Nội, 6/8/2008
Ghi chú:
(1) Tổ chức Phát Xít gồm: Nhật, Đức, Ý
gây chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945)
(2) Trong thế chiến 2 Trung Quốc và
Liên Xô bị thiệt hại năng nề nhất.
(3) Mặt
trận Đồng Minh chống Phát Xít được hình thành gồm Liên Xô, Trung Quốc, Anh,
Pháp, Mỹ,… ở Việt Nam cũng thành lập mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh gọi tắt
là Việt Minh từ tháng 5/1941
(4) Khi
thế trận đã an bài như đế quôc Mỹ vẫn ném bom nguyên tử xuống Hiroxima và
Nadagaki giết hại hàng chục vạn dân lành đúng ngày 6/8/1945.
(5) Ngày
6/8/2008 nhân dân Nhật Bản kỷ niệm 63
năm ngày Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật. Ở lễ kỷ niệm đau thương này người Nhật
cầu nguyện trái bom nguyên tử đầu tiên ấy sẽ là trái bom cuối cùng.